Công tác tuyên truyền, vận động trong giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số hiện nay
20/11/2013 Lượt xem: 1910 In bài viếtCách đây hơn 10 năm, ngày 12/3/2003, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khoá IX) đã ban hành Nghị quyết số 24/NQ-TW về công tác dân tộc. Trải qua một thập kỷ, Nghị quyết đã soi đường, góp phần nâng cao nhận thức của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội về vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc, đây là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam; định hướng những nhiệm vụ cấp bách, chỉ đạo những giải pháp chủ yếu đối với công tác dân tộc nhằm thực hiện nguyên tắc: "Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển", phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nguồn lực phát triển của mỗi quốc gia được cấu thành bởi nhiều yếu tố: tiềm lực tài chính, tài nguyên thiên nhiên, khoa học công nghệ… Trong đó nguồn nhân lực giữ vai trò quan trọng, quý báu nhất, thậm chí mang tính chất quyết định với những nước đang phát triển có nguồn lực tài chính và nguồn lực vật chất hạn hẹp như Việt Nam.
Căn cứ tình hình thực tế của đất nước, từ Đại hội
lần thứ VI (năm 1986) đến nay, Đảng ta luôn xác định con người vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của
Đảng ghi rõ: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ
thể phát triển”. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ 2011 - 2020,
được thông qua tại Đại hội Đảng đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định: “Phát
triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng
và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả
và bền vững”.
* Thực trạng nguồn nhân lực dân tộc thiểu số nước ta
Đề cập đến nguồn nhân lực phải xét đến cả hai góc độ: số lượng và chất lượng,
trong đó chất lượng có vai trò quan trọng hơn bởi thực tế đã cho thấy không phải
cứ đông là mạnh. Điều này hoàn toàn đúng với thực trạng nguồn nhân lực vùng dân
tộc thiểu số ở nước ta. Người dân tộc thiểu số chiếm tỷ lệ lớn trong nguồn nhân
lực vùng dân tộc, miền núi. Lực lượng lao động này tập trung chủ yếu tại 32/51
tỉnh, thành phố, trong đó 12 địa phương vùng Trung du, miền núi phía Bắc và Tây
Nguyên có tỷ lệ dân tộc thiểu số chiếm trên 50%. Tuy nhiên, chất lượng nguồn
nhân lực vùng dân tộc, miền núi ở nước ta hiện còn nhiều hạn chế, thể hiện qua
một số vấn đề sau:
Một là, phân bố dân số và lao động không đều. Vùng miền núi có mật độ dân số thấp: Tây Nguyên 93 người/km2, miền núi phía Bắc: 116 người/km2. Mật độ dân số thấp ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng nguồn nhân lực không đáp ứng yêu cầu sản xuất và là một trong những nguyên nhân dẫn đến di cư tự do từ các vùng miền có mật độ dân số cao.
Hai là, cơ cấu nguồn nhân lực có nhiều bất cập, biểu hiện ở mất cân đối giữa nam và nữ dân tộc thiểu số (nam giới 42,8%, nữ giới 57,2%). Lao động tập trung chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp; tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao và trung bình rất thấp (Trung du, miền núi phía Bắc 6,26%; Tây Nguyên 5,93%).
Ba là, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật của lao động từ 15 tuổi trở lên thấp.
Về học vấn: Tỷ lệ lao động không biết đọc, viết tương đối cao: Thái: 18,1%, Khmer: 24,4%, Mông: 54%... Các dân tộc thiểu số còn lại là 22,4%.
Về chuyên môn kỹ thuật: Số người không có chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ 86,21% dân số trong độ tuổi lao động. Một số dân tộc có tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động chưa qua đào tạo cao: Dân tộc Mông: 98,7%; Khmer 97,7%; Thái 94,6%; Mường 93,3%... Tỷ trọng dân số đã qua đào tạo ở các bậc sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học thấp: Dân tộc Thái 1,6%, Mường 2%, Khmer 1%, Mông 0,3%, các dân tộc thiểu số khác 1,5%.
Trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số: Ở cấp Hội đồng nhân dân tỉnh, trình độ đại học trở lên chiếm 77,26%; Hội đồng nhân dân huyện 45,63%; Hội đồng nhân dân xã 5,87%; với đội ngũ cán bộ thôn, bản thì năng lực, trình độ còn thấp hơn nhiều.
Bốn là, thể lực của nguồn nhân lực vùng dân tộc, miền núi yếu: thể trạng, tầm vóc nhỏ bé, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em cao, tuổi thọ thấp.
Năm là, chất lượng giáo dục, đào tạo vùng dân tộc, miền núi hạn chế. Tỷ lệ người không biết đọc, biết viết cao. Tỷ lệ trẻ em đi học mẫu giáo, mầm non, đặc biệt là nhóm trẻ 3 - 5 tuổi thấp. Tỷ lệ học sinh không đi học bậc tiểu học là 4,54%, học không đúng độ tuổi 7,7%. Giáo dục chuyên biệt cho dân tộc thiểu số còn nhiều vấn đề cần quan tâm. Hệ thống trường Phổ thông Dân tộc nội trú không đáp ứng nhu cầu đào tạo. Trong khi hệ cử tuyển, dự bị đại học lại không thực hiện hết chỉ tiêu kế hoạch do thiếu học sinh…
Hiện nay, cơ cấu nguồn nhân lực ở nước ta được chia thành 2 loại: trên 15 tuổi và dưới 15 tuổi. Đối với dân tộc thiểu số, nguồn nhân lực từ 15 tuổi trở lên có gần 8,5 triệu người, chiếm tỷ lệ 69%; dưới 15 tuổi là 31%. Cơ cấu này có sự khác biệt so với cơ cấu chung và không nằm trong thực trạng “Cơ cấu dân số vàng” của vùng và cả nước vì tỷ trọng dân số có độ tuổi trên 15 của dân tộc thiểu số thấp hơn và tỷ trọng dân số có độ tuổi dưới 15 cao hơn bình quân chung của cả nước.
Những năm qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách tác động trực tiếp và gián tiếp đến phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi. Về trực tiếp: Cấp thẻ bảo hiểm miễn phí cho người nghèo, người dân tộc thiểu số; chương trình phòng, chống sốt rét; phòng chống bướu cổ; HIV/AIDS; tiêm chủng mở rộng; chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em; chính sách xây dựng và phát triển hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú; chính sách cử tuyển học sinh vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp; ưu tiên điểm đối với học sinh thi đại học, cao đẳng; chính sách hỗ trợ học sinh là con hộ nghèo đi học tại các xã đặc biệt khó khăn; chính sách tín dụng đối với học sinh, sinh viên; đề án hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg, ngày 27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ.
Về gián tiếp: Dự án đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán bộ cơ sở và cộng đồng bằng nguồn vốn của Chương trình 135 giai đoạn II; Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo với các hoạt động như: tập huấn, chuyển giao khoa học kỹ thuật, đào tạo nghề miễn phí cho lao động nghèo, miễn giảm học phí, hỗ trợ sách giáo khoa, vở viết cho học sinh nghèo; Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững tại 62 huyện nghèo với các hoạt động: đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, ngoại ngữ để đưa người đi xuất khẩu lao động…
Tuy nhiên, hầu hết các chính sách mang tính chất hỗ trợ, chưa đầu tư đồng bộ, nguồn lực đảm bảo thấp đã ảnh hưởng rất lớn đến kết quả thực hiện các mục tiêu đặt ra. Ngoài ra, chưa có quy hoạch cũng như chính sách đặc thù để tập trung phát triển nguồn nhân lực dẫn đến vùng dân tộc và miền núi vẫn chậm phát triển; chênh lệch khoảng cách phát triển với các vùng khác đang có xu hướng dãn rộng ra.
* Phương hướng phát triển nguồn nhân lực dân tộc
thiểu số
Phát triển nguồn nhân lực vùng dân tộc và miền núi là nhiệm vụ quan trọng, cấp
bách trong giai đoạn hiện nay nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội
vùng dân tộc và miền núi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng
hóa, tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng
bào một cách bền vững. Đây là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, cần thời gian dài nên
phải được xác định là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, với
nguồn lực đầu tư đảm bảo từ ngân sách nhà nước kết hợp với sức mạnh của cộng
đồng, cùng ý thức tự lực vươn lên của đồng bào các dân tộc.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng miền núi, dân tộc cần thực hiện đồng bộ nhiều nhiệm vụ: đào tạo sau đại học; đại học; cao đẳng; trung cấp chuyên nghiệp; xóa mù chữ; đào tạo nghề ngắn hạn; đào tạo nghề trình độ sơ cấp cho các hộ nghèo về kỹ thuật, khoa học công nghệ phục vụ phát triển sản xuất, kiến thức phát triển kinh tế hộ gia đình; đào tạo nghề phi nông nghiệp và trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề cho thanh niên; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức, năng lực quản lý hành chính, quản lý kinh tế - xã hội theo chức danh, vị trí làm việc đáp ứng yêu cầu của công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành và thực thi công vụ cho cán bộ, công chức xã đạt chuẩn theo quy định...
Thực hiện các nhiệm vụ trên, hiện nay, Uỷ ban Dân tộc đã và đang tích cực phối hợp với các bộ, ngành, địa phương lồng ghép các chính sách hiện hành nhằm tập trung nguồn lực cho công tác phát triển nguồn nhân lực; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đặc biệt, đang quyết liệt chỉ đạo hoàn chỉnh Đề án thành lập Học viện Dân tộc trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, phấn đấu từ năm 2014 có thể tuyển sinh, coi đây là giải pháp đột phá trong thực hiện nhiệm vụ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng dân tộc, miền núi.
Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới” đã chỉ rõ "Làm tốt công tác dân tộc" là một nội dung trong nhiệm vụ, giải pháp "Nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ Đảng, Nhà nước, Mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân về vai trò, vị trí công tác dân vận trong tình hình mới". Uỷ ban Dân tộc tích cực chỉ đạo hệ thống cơ quan công tác dân tộc từ Trung ương tới địa phương khẩn trương đưa Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá XI vào cuộc sống với một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần đạt mục tiêu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng đồng bào dân tộc thiểu số:
Thứ nhất, chú trọng vận động quần chúng thông qua phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các đoàn thể nhân dân và Bộ Giáo dục - Đào tạo nhằm tăng cường công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cán bộ và người dân về vai trò của giáo dục và đào tạo với sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thứ hai, coi trọng và phát huy vai trò người có uy tín tiêu biểu trong đồng bào dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động trong giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay sẽ đạt hiệu quả cao hơn nếu phát huy tốt vai trò của người tiêu biểu, có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số. Với số lượng trên 31 nghìn người có uy tín tiêu biểu trong đồng bào dân tộc thiểu số chính là cầu nối đưa chủ trương, chính sách của Đảng đến đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có các chính sách liên quan đến phát triển nguồn nhân lực.
Thứ ba, nâng cao đạo đức công vụ cho cán bộ, công chức của Uỷ ban Dân tộc.
Là cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực công tác dân tộc, Uỷ ban Dân tộc tăng cường thực hiện Chỉ thị 03/CT-TW, ngày 14/5/2011, của Bộ Chính trị về đẩy mạnh việc "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", trọng tâm là nâng cao đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Cán bộ, công chức, viên chức phải có trách nhiệm vận động nhân dân ủng hộ và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc. Xây dựng và thực hiện phong cách "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân"; "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin"; "Những việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm; những việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh"; thường xuyên đi công tác cơ sở. Bên cạnh đó, cán bộ, công chức, viên chức ngành công tác dân tộc phải nắm vững và vận dụng sáng tạo nội dung, phương pháp công tác dân vận vùng đồng bào dân tộc; quán triệt phương châm: chân thành, tích cực, thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc. Sử dụng nhiều phương thức phù hợp với đặc thù của từng dân tộc, từng địa phương.
Thứ tư, sử dụng đồng bộ nhiều hình thức tuyên truyền, vận động với đồng bào dân tộc thiểu số.
Công tác tuyên truyền, vận động trong giáo dục đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số cần được thực hiện thông qua các hình thức: phát thanh, truyền hình, in sách báo song ngữ, sáng tác văn học bằng tiếng dân tộc. Nội dung của các hoạt động này tập trung vào việc chuyển tải quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về giáo dục, đào tạo dân tộc thiểu số. Qua đó góp phần hình thành, phát triển nhận thức, kiến thức xã hội, kỹ năng sống cho nguồn nhân lực dân tộc thiểu số.
Thứ năm, phối hợp với ngành Giáo dục - Đào tạo thực hiện tốt các chính sách phát triển giáo dục, đào tạo chuyên biệt cho học sinh dân tộc thiểu số. Phát triển hệ thống trường trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề gắn với quy hoạch phát triển nhân lực và nhu cầu sử dụng lao động của các địa phương. Rà soát, kiến nghị sửa đổi những bất cập trong chính sách cử tuyển, dự bị đại học nhằm đáp ứng được số lượng và chất lượng đào tạo đa ngành nghề cho nhu cầu của các địa phương vùng dân tộc thiểu số. Chú trọng thực hiện phân loại, đánh giá học sinh các cấp học, hướng nghiệp học sinh ngay từ cấp trung học cơ sở. Đối với những học sinh có năng khiếu, chuẩn bị cho bước chuyển tiếp vào học các trường năng khiếu chuyên biệt. Đối với những học sinh có trí tuệ tốt, sau khi tốt nghiệp, cho chuyển sang học tại các trường dân tộc nội trú trung học phổ thông, chuẩn bị lâu dài cho đào tạo trí thức, đào tạo nhân tài dân tộc thiểu số. Số còn lại cần định hướng giáo dục nghề nghiệp thật tốt, chuẩn bị cho chuyển sang hệ giáo dục nghề nghiệp, giúp các em có điều kiện tìm kiếm việc làm hoặc đủ kiến thức trở về nông thôn tổ chức sản xuất và đời sống gia đình.
ThS. Nông Quốc Tuấn
Ủy viên Ban Chấp hành TW Đảng
Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc
Nguồn ubdt.gov.vn
[TT: TBC]